[Tài liệu nghiên cứu] Vẻ đẹp và quái vật: cơ chế của sự chọn lọc giới tính ở người [David A. Puts]

Tài liệu nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học tiến hóa gợi ý rằng việc lựa chọn bạn tình (mate choice) đã là cơ chế chính của sự chọn lọc giới tính (sexual selection) ở người, nhưng kết luận này không phù hợp với dự đoán lý thuyết hay bằng chứng có sẵn. Các cuộc chiến đấu (contests) chiếm ưu thế so với các cơ chế chọn lọc giới tính khác; tức là, khi các cá thể có thể loại trừ đối thủ của mình bằng vũ lực (force) hoặc đe dọa sử dụng vũ lực (threat of force), thì việc lựa chọn bạn tình, cạnh tranh tinh trùng (sperm competition) và các cơ chế khác trở nên không thể. Việc độc quyền (monopolize) bạn tình dễ dàng hơn trong môi trường giao phối hai chiều, như trên cạn, so với môi trường ba chiều như không khí, nước và cây. Do đó, môi trường giao phối hai chiều (two-dimensional mating environments) có thể có xu hướng ủng hộ sự tiến hóa của các cuộc chiến đấu (evolution of contests). Đặc điểm hai chiều của môi trường giao phối ở người, cùng với nguồn gốc loài, sự tập trung không gian và thời gian của bạn tình và đối thủ cạnh tranh, cũng như các yếu tố giải phẫu, dự đoán rằng các cuộc chiến nên là cơ chế chính của sự chọn lọc giới tính ở nam giới. Phân tích chức năng ủng hộ dự đoán này. Các đặc điểm của nam giới được thiết kế tốt hơn cho mục đích chiến đấu so với các cơ chế chọn lọc giới tính khác; kích thước, cơ bắp, sức mạnh, tính hung hăng và việc sản xuất và sử dụng vũ khí có lẽ đã giúp tổ tiên nam giành chiến thắng trong các cuộc chiến trực tiếp, và giọng nói trầm cùng râu mặt báo hiệu sự thống trị hiệu quả hơn là làm tăng sức hấp dẫn (attractiveness). Tuy nhiên, sự độc quyền của nam giới đối với nữ giới là không hoàn hảo, và việc lựa chọn bạn tình của phụ nữ, cạnh tranh tinh trùng và ép buộc tình dục cũng có khả năng đã hình thành các đặc điểm của nam giới. Ngược lại, việc nam giới lựa chọn bạn tình có lẽ đã quan trọng trong cuộc cạnh tranh giành quyền giao phối của phụ nữ do tổ tiên nữ không thể hạn chế sự lựa chọn của nam giới to lớn và hung hăng thông qua vũ lực, và phụ nữ quyến rũ có thể thu được sự đầu tư lớn hơn từ nam giới. Các đặc điểm nữ tính neotenous (giữ lại các nét ở giai đoạn trẻ thơ) và sự tích tụ mỡ ở vú và hông có vẻ đã được hình thành bởi sự lựa chọn bạn tình của nam giới.


1. Giới thiệu

Khi quan sát hành vi hẹn hò, bắt cặp của con người trong một quốc gia phát triển, người ta có thể nhận thấy rằng để thành công trong cuộc cạnh tranh thu hút các cá thể khác giới nhằm tìm kiếm bạn đời, thì việc hấp dẫn thành viên của giới tính đối diện là rất quan trọng. Vẻ đẹp, thời trang và sức khỏe thể chất có vai trò lớn đến nỗi ở những nơi như Hoa Kỳ, chúng đã trở thành những ngành công nghiệp tỷ đô. Đàn ông và phụ nữ có quyền tự do tuyệt đối trong việc chọn lựa bạn đời của mình. Những điều kiện này rất phổ biến đến mức khiến người ta cảm thấy chúng đã định hình quá trình tiến hóa của chúng ta—rằng con người đã tiến hóa trong một bối cảnh mà ở đó, trong lĩnh vực hẹn hò bắt cặp, sở thích của giới tính đối diện là lực lượng chính hình thành nên các kiểu hình (phenotypes) của chúng ta.


Với một số ngoại lệ đáng chú ý (ví dụ, Apostolou, 2007; Archer, 2009; Buss & Dedden, 1990; Buss & Duntley, 2006; Buss & Shackelford 1997; Daly & Wilson, 1988; Lassek & Gaulin, 2009; Sell và cộng sự., 2009), tài liệu nghiên cứu gần đây trong Tâm lý học tiến hóa củng cố ấn tượng này. Phần lớn nghiên cứu về chọn lọc giới tính ở Homo sapiens tập trung vào việc lựa chọn bạn đời. Trong số các bài báo về chọn lọc giới tính ở người, hơn 75% (55 trên 73) được công bố từ năm 1997 đến 2007 trong các tạp chí Evolution and Human Behavior và Human Nature chủ yếu liên quan đến việc lựa chọn bạn đời (được phân loại bởi tác giả hiện tại và một trợ lý nghiên cứu được đào tạo thành các danh mục “lựa chọn bạn đời,” “đấu tranh vị thế và quyền lực,” và “khác,” dựa trên giả thuyết được kiểm tra trong bài báo). Theo một nhà nghiên cứu có ảnh hưởng, trong các loài sinh sản hữu tính, “tất cả gen phải lan truyền qua cánh cổng của tình dục, và việc lựa chọn bạn đời là kẻ giữ cánh cổng này. Vì lý do đó, việc tán tỉnh, ve vãn tình dục (sexual courtship) có lẽ đã chiếm một vị trí trung tâm trong quá trình tiến hóa của loài người và vẫn giữ vai trò trung tâm trong cuộc sống hiện đại của con người” (Miller, 1998, trang 119). Theo một nhà nghiên cứu hàng đầu khác, “những mong muốn của một giới tính thiết lập những chiều kích then chốt mà thành viên của giới tính đối diện cạnh tranh” (Buss, 1996, trang 307). Bằng chứng rộng khắp không để lại chút nghi ngờ nào, rằng sở thích của mỗi giới tính đã là áp lực chọn lọc quan trọng đối với giới tính kia.


Nhưng liệu sự lựa chọn bạn đời đã thực sự là cơ chế chính của quá trình chọn lọc giới tính ở loài người, như những gì mà tài liệu nghiên cứu đã gợi ý? Tôi cho rằng không phải vậy. Thay vào đó, cuộc chiến đấu cạnh tranh—nơi mà vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực được sử dụng để loại bỏ đối thủ cùng giới khỏi cơ hội giao phối—đã là hình thức chính của cuộc cạnh tranh hẹn hò, giao phối ở nam giới, trong khi việc lựa chọn bạn đời của nam giới lại chiếm ưu thế như một cơ chế của quá trình chọn lọc giới tính tác động lên phụ nữ. Lập luận này sẽ được xây dựng dựa trên lý thuyết phát triển từ việc so sánh giữa các loài và sau đó được kiểm nghiệm bằng cách xem xét bằng chứng về thiết kế hình thể rõ ràng ở con người.


2. Chọn lọc giới tính

Darwin (1859; 1871) đã đề xuất chọn lọc giới tính (sexual selection) để giải thích những đặc điểm có vẻ như gây hại cho sự sống còn (survival) - như hàm móc của cá hồi đực, sừng của con nai, cựa của con gà trống, và "bộ lông lộng lẫy" cùng "những hành vi kỳ quặc" (1859, trang 137) của chim hét (rock-thrush) đực và chim thiên đường. Mặc dù những đặc điểm này có thể làm giảm khả năng sống sót, Darwin đã giả thuyết rằng chúng vẫn có thể thúc đẩy việc chúng được truyền lại cho thế hệ tiếp theo bằng cách giúp chủ nhân của chúng chiến thắng trong cơ hội giao phối: Chúng có thể được ưu tiên dưới sự chọn lọc giới tính. Trong những năm qua, một lượng lớn tài liệu đã xác nhận giả thuyết này và mở rộng hiểu biết về các phương thức của chọn lọc giới tính và những đặc điểm mà từng phương thức ưu tiên. Ví dụ các cuộc chiến đấu cùng giới ưu tiên các đặc điểm kích cỡ, sức mạnh, vũ khí và tính hung hãn, trong khi sự chọn lựa bạn tình lại ưu tiên cho các thứ như là trang sức tình dục và màn trình diễn [Thuật ngữ vật trang sức được sử dụng ở đây để chỉ một đặc điểm góp phần tạo nên đặc điểm thể chất, chủ yếu thông qua sự ưa thích đặc điểm này ở đối tượng khác giới]. Sự cạnh tranh tinh trùng (sperm competition) ưu tiên việc sản xuất ra lượng tinh trùng lớn, tinh trùng di động linh hoạt và giao phối thường xuyên, cuộc chiến giành giật bạn tình ưu tiên cho các cơ quan cảm giác và di chuyển để nhanh chóng xác định vị trí bạn tình (Andersson, 1994, Bảng 1.1.1), và sự ép buộc tình dục lại ưu tiên kích cỡ, sức mạnh và các đặc điểm khác giúp thuận lợi cho việc quấy rối, trừng phạt và ép buộc giao phối (Savalli, 2001). 


Chúng ta cũng đã tiến xa trong việc hiểu tại sao một giới tính, thường là con đực, thường xuyên thể hiện sự trang trí cầu kỳ, màn biểu diễn tán tỉnh, sự hung hăng, vũ khí và những điều tương tự. Rõ ràng, giới tính nào phụ thuộc nhiều hơn vào việc tiếp cận bạn tình sẽ trải qua sự chọn lọc giới tính mạnh mẽ hơn. Điều này phụ thuộc vào tỷ lệ giới tính hoạt động (operational sex ratio), tỷ lệ giữa số cá thể cái có khả năng thụ tinh so với số cá thể đực hoạt động tình dục vào một thời điểm nhất định (Emlen, 1976). Sự khan hiếm bạn tình khiến giới tính phổ biến hơn (số lượng đông hơn) phải cạnh tranh để chiếm lấy họ [bạn tình hiếm hơn]. Tỷ lệ giới tính hoạt động, ngược lại, phụ thuộc vào tỷ lệ sinh sản tương đối của con đực và con cái (Clutton-Brock & Vincent, 1991), và những tỷ lệ này thường phụ thuộc vào sự đầu tư trong vai trò cha mẹ (Bateman, 1948; Trivers, 1972; Williams, 1966). Nói chung, giới tính đầu tư ít hơn trong việc tạo và nuôi dưỡng hậu duệ sẽ kết thúc mỗi cuộc phiêu lưu sinh sản sớm hơn và quay trở lại “kho” bạn tình để phát hiện ra sự thiếu hụt của giới tính đầu tư nhiều hơn, sinh sản chậm hơn. Bởi vì giống đực thường đầu tư ít hơn giống cái, nên giống đực thường xuyên cạnh tranh mạnh mẽ hơn cho việc tìm kiếm bạn tình...


File PDF tải về đầy đủ: https://cdn.blogmienphi.com/2024/01/ve-dep-quai-vat.pdf


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

[Tài liệu nghiên cứu] Lý thuyết các Chiến lược Tình dục: Một góc nhìn Tiến hóa về Hẹn hò ở Người [David M. Buss và David P. Schmitt]

[Tài liệu nghiên cứu] Tại sao họ không kết hôn? Rào cản đối với hôn nhân trong số những người có hoàn cảnh khó khăn [Kathryn Edin và Joanna M. Reed]